Phân tích nét cổ điển, hiện đại trong bài thơ Tương tư - Nguyễn Bính
Tương tư – Nguyễn
Bính
Trong khi hầu hết
các nhà Thơ mới - theo nhận xét của Hoài Thanh "đều đội lên đầu dăm bảy
nhà thơ Pháp" thì Nguyễn Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với văn hóa
dân gian, với những câu hát cửa đình, rặng mồng tơi, bến đò , cây đa, bến nước....Ông
đã trở thành "chủ soái" của trường phái "thơ mới dân gian"
gồm Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân. Và cũng như các nhà Thơ mới khác, thơ
Nguyễn Bính có tiếng hát tình yêu song không mãnh liệt, dữ dội như tình yêu
trong thơ Xuân Diệu, không tang thương như thơ tình Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong
thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca
dao. Bài thơ "Tương tư" rất tiêu biểu cho hồn thơ và giọng thơ Nguyễn
Bính trong lĩnh vực thơ tình. Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nét truyền
thống và hiện đại, vừa chứa những nét dân gian chân chất vừa mang trong mình
cái hồn thơ mới.
Trong dòng Thơ Mới
1930-1945 ,”Tương tư” của Nguyễn Bính có phong cách cổ điển dân dã ở cả thi liệu,
thể thơ, đề tài. Nếu như thơ Xuân Diệu mới lạ trong màu sắc phương Tây , Hàn Mặc
Tử siêu thực trong thơ Điên… Nguyễn Bính tinh ròng chất ca dao .Nét truyền thống
trước hết thể hiện ở ngay thể thơ- thể lục bát, đây là thể thơ truyền thống do
người Việt Nam sáng tạo nên. Nguyễn Bính
vận dụng cách ngắt nhịp đều đặn, hài hoà như ca dao truyền thống. Đó là nhịp chẵn
2/2/2; 2/4( câu lục ) và 2/2/2/2; 4/4 ( câu bát ) thường thấy của ca dao:
“ Thôn Đoài / ngồi
nhớ / thôn Đông
Một người / chín
nhớ / mười mong / một người”
Về đề tài, bài
thơ là nỗi nhớ, tương tư trong tình yêucủa chàng trai dành cho người con gái.
Đây là đề tài thường thấy trong ca dao.
Nhớ ai khổ sở thế
nầy
Nhớ ai, ai nhớ,
đêm ngày nhớ ai
Nhớ ai, ai có nhớ
ai
Nhớ sao da diết,
biết có ai nhớ mình
(ca dao)
Khăn thương nhớ
ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ
ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ
ai
Khăn chùi nước mắt
(ca dao)
Thơ lục bát của
Nguyễn Bính cũng rất tự nhiên, mượt mà, không gò ép nhưng cũng không rơi vào diễn
ca, vần vè, dễ dãi. Bởi thể lục bát dường như đã nhuyễn vào hồn thơ Nguyễn
Bính. Theo thi sĩ Mộng Tuyết thì Nguyễn Bính làm thơ lục bát rất dễ dàng: “
Bính viết lục bát nhanh như văn xuôi”. Đọc thơ Nguyễn Bính, ta như được thưởng
thức những khúc nhạc êm dịu của ca dao:
Gió
mưa là bệnh của trời,
Tương
tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai
thôn chung lại một làng,
Cớ
sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày
qua ngày lại qua ngày,
Lá
xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Bảo
rằng cách trở đò giang,
Không
sang là chẳng đường sang đã đành;
Nhưng
đây cách một đầu đình,
Có
xa xôi mấy mà tình xa xôi.
Phát huy nhịp điệu
trầm buồn, êm ái, mượt mà của thể lục bát, Nguyễn Bính đã tạo nên những dòng
thơ lục bát rất hay, mang đậm phong cách thơ “ chân quê”:
Về ngôn ngữ,
cũng như ngôn ngữ của thơ ca dân gian, ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Bính không cầu
kì khuôn sáo mà gần gũi, chân thành. Ta nghe như có tiếng trách móc nhẹ nhàng
đáng yêu của một chàng trai với người mình thương:
Hai
thôn chung lại một làng,
Cớ
sao bên ấy chẳng sang bên này?
Hay những lời kể
chân chất:
Nhà
em có một giàn giầu,
Nhà
anh có một hàng cau liên phòng.
Ngôn ngữ thơ của
Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian còn bởi nó giàu hình ảnh, màu
sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách biểu hiện thế giới tình cảm trừu
tượng thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình
dị nơi thôn dã gần gũi thân quen, đó là thế giới của giàn giầu, hàng cau, mái
đình, của làng quê Việt Nam thân quen, gần gũi.
Một điều đáng
chú ý nữa là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc của thơ ca dân gian đã
hòa hợp vào "Tương tư" của
Nguyễn Bính một cách rất tự nhiên. Những cụm từ phíếm chỉ tôi- nàng,
Thôn Đoài - thông Đông, bên ấy - bên này, bến - đò, hoa - bướm cùng đại từ phiếm
chỉ "ai" rất tế nhị, khó xác định chính xác đối tượng nhưng cũng rất
dễ vận vào bất cứ người nào, làm tăng khả năng khái quát tâm trạng điển hình của
nhiều người, tăng khả năng đồng cảm giữa những con người khác nhau.Nguyễn Bính
đã làm người đọc phải suy nghĩ vấn vương bởi những câu có từ mờ nghĩa:
“
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết
cho ai biết, ai người biết cho
Hai
thôn chung lại một làng
Cớ
sao bên ấy chẳng sang bên này”
- Nguyễn Bính
còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc sử dụng thành thạo
các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh thường
xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình yêu đôi lứa, tác giả dùng hình ảnh
“ hoa- bướm” (hoa khuê các, bướm giang hồ), “trầu- cau” (giàn giầu/ hàng cau liên
phòng), “bến- đò” (Bao giờ bến mới gặp đò).
Nguyễn Bính sử dụng
rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong thơ ca dân gian, "chín nhớ mười
mong" được hoán cải từ thành ngữ " chín nhớ 10 thương" từ thành
ngữ để chàng trai bộc lộ nỗi niềm riêng tư của mình, diễn tả sự xa cách trong
tình yêu, yêu người nhưng không được gặp người, tình yêu không được đền đáp, thậm
chí người ta còn chưa biết nên sinh ra nỗi tương tư. Do đó, từ ngữ không còn ý
nghĩa thường có của chúng bởi vì chính khi tư duy theo kiểu đan lồng những từ
tương hợp thì ý nghĩa của từ đã được nhân lên gấp bội:
“
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một
người chín nhớ mười mong một người”
Lối đan chữ “
chín nhớ mười mong” đã làm tăng nỗi nhớ mong thấp thỏm của chàng trai đang
trong trạng thái “ tương tư”.
Nét hiện đại
Trong bài thơ,
chất dân gian vẫn không lấn át được những tình điệu lãng mạn vốn là sản phẩm đặc
thù của thời đại Thơ mới. Nét hiện đại thể hiện rõ nét qua nhịp điệu, hình ảnh
và đặc biệt là cảm xúc - tình cảm cá nhân được bộc lộ trực tiếp.
Trước hết ở nhịp
điệu Nhịp điệu:
Vì mang hơi thở
của cái tôi Thơ Mới, lục bát của Nguyễn Bính nhiều khi phá vỡ tính cân xứng hài
hoà của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình Nguyễn
Bính vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách
linh động diễn tả tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Tác giả sử
dụng kiểu ngắt nhịp 3/3/2 ở câu bát làm cho lời thơ sinh động hẳn lên. Nhịp thơ
ngắt bất ngờ tạo sự xuất hiện đột ngột của tình huống:
Bao
giờ bến mới gặp đò,
Hoa
khuê các, / bướm giang hồ /gặp nhau.
Hay sự ngắt nhịp
3/3 trong câu lục biểu thị nỗi chờ đợi mòn mỏi của chàng trai:
Ngày
qua ngày/ lại qua ngày,
Lá
xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Với lối ngắt nhịp
linh hoạt phá cách không tuân theo những quy tắc truyền thống mà tuân theo tần
số dao động của tình cảm, Nguyễn Bính đã tạo cho thơ lục bát của ông những dấu ấn
riêng độc đáo khác với ca dao, đem lại những xúc cảm mới mẻ cho người đọc.
-Về việc sử dụng
hình ảnh, Nguyễn Bính không phải là nhà thơ gây ấn tượng đối với người đọc bằng
những hình ảnh mới lạ như những nhà Thơ Mới khác như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên. Thơ ông là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca
dao với những giàn giầu, hàng cau, làng xóm…nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn
Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó cái
hồn của Thơ Mới. Trong ca dao hay thơ trung đại, các tác giả lấy thiên nhiên
làm cái cớ, ẩn chứa trong đó lí do, gửi gắm nỗi niềm, ẩn dụ cho chàng trai – cô
gái
“Bóng trăng anh tưởng bóng đèn
Bóng cây anh ngỡ
bóng thuyền em sang”
“Huệ nhớ thương
Lan, héo vàng xác Huệ
Anh quá thương
nàng, trối kệ thị phi”
Còn trong thơ
Ng. Bính, tác giả thể hiện trực tiếp tình cảm của mình và thiên nhiên, các hình
ảnh thơ để tạo không gian nhân vật sống, không gian quen thuộc nuôi dưỡng tình
cảm của nhân vật trữ tình:
Nắng mưa là bệnh
của giời
Tương tư là bệnh
của tôi yêu nàng
Sự thực trong
câu thơ đã len vào thứ giọng đậm chất thành thị của con người thời Âu hóa với đặc
điểm dám gọi đích danh sự vật hiện tượng, sự vật, dám chường cái tôi của mình
ra mà giãi bày – một lời giãi bày trần trụi, táo bạo và mãnh liệt. Ngay ở tên
nhan đề bài thơ cũng đã thể hiện rõ ràng : "tương tư" - nó như phô
bày, như khoe lòng mình trước thiên hạ rằng tôi đang yêu, tôi đang nhớ. Điều
này là một sự hiếm thấy trong ca dao.
“Tương tư” của
Nguyễn Bính tuy vẫn đi trên khung truyền thống của dân tộc nhưng nét mới nhất
là nằm ở nội dung. Nguyễn Bính đã làm mới thể thơ lục bát bằng cách sử dụng từ
ngữ, hình ảnh, nhịp điệu mới mẻ, linh động, thấm đẫm cái tình tứ Thơ Mới. Bên cạnh
đó đó ông đã thổi “ hồn quê” vào bài thơ.Điều này đã làm cho tác phẩm có diện mạo
riêng so với ca dao và các tác phẩm khác trong phong trào Thơ Mới. Nét nổi bật
của hồn quê trong lục bát Nguyễn Bính là thứ hồn quê mang màu sắc cá nhân. Cũng
mang “ hồn quê” nhưng lục bát ca dao nó mang tính phổ quát còn trong thơ lục
bát của Nguyễn Bính, không gian đồng quê được phủ lên cái tâm tư của con người
hiện đại. Bài thơ vừa là sự kết hợp , kế thừa của những yếu tố truyền thống vừa
có những nét mới, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.
Nhận xét
Đăng nhận xét