Phân tích vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại trong bài thơ Tràng giang - Huy Cận
Phân tích vẻ đẹp vừa cổ điển vừa
hiện đại của bài thơ Tràng giang - Huy Cận
Dàn ý
a. Đề tài, cảm hứng:
- Tràng giang mang nỗi
sầu từ vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn trước thời gian
không gian vô hạn, vô
cùng.
- Tràng giang đồng thời
thể hiện “nỗi buồn thế hệ” của một “cái tôi” Thơ mới thời mất
nước “chưa tìm thấy lối
ra”.
b. Chất liệu thi ca:
- Vẻ đẹp cổ điển còn toát lên ở cách thức xây dựng hình ảnh đối
lập _ đó cũng chính là cách vận dụng tự nhiên lối đối của bài thơ :
Nắng xuống _ trời lên
, thuyền về _ nước lại , sông dài _ trời rộng , ... , cái bao la, vô cùng vô tận
của vũ trụ _ cái nhỏ bé , hữu hạn của con người. Huy Cận còn sử dụng có hiệu quả
với tần số cao hệ thống từ láy : 10 lần trong 16 dòng thơ .Cách thức miêu tả những
bức tranh thiên nhiên cũng mang âm điệu Đường thi , chỉ miêu tả một vài nét đơn
sơ mà ghi lại được hồn cốt của tạo vật .Chất cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ
nét ở câu kết : " Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà " Thôi Hiệu xưa
kia nhìn khói hoàng hôn trên sông nước mà nhớ đến quê hương : "Quê hương
khuất bóng hoàng hôn _ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ". Huy Cận
không cần có khói sóng , tức là không cần có cái gợi nhớ mà vẫn dờn dợn nhớ nhà
.Và cũng chính ở câu thơ cuối này nó đã khắc sâu hơn cái sắc màu hiện đại của
Tràng Giang .Mượn tứ thơ cổ , Huy Cận đẩy cảm giác lên một tầm cao mới với cấp
độ mạnh hơn .Nỗi nhớ của con người hiện đại được thể hiện một cách cháy bỏng
hơn , thường trực hơn , da diết nhiều hơn .Vì thế nó hiện đại hơn.
- Mặt khác, Tràng
giang cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không
ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt…). Bài
thơ hiện đại và là một bài thơ mới . Có cái mới của hồn thơ , có cái mới của chủ
thể trữ tình .Khác với thơ xưa , tâm trạng của chủ thể trữ tình,cảm hứng cá
nhân của nhà thơ chạy suốt toàn bài mới là nhất quán .Nó khác hẳn với kết cấu đề
- thực - luận - kết , hay tiền giải - hậu giải của thơ Đường .Bài thơ hiện đại
trong cách cảm nhận sự vật , trong cách sử dụng thi liệu hình ảnh : củi , sông
, nắng , bèo , cát , cây xanh , cánh chim , ... .Tất cả làm nên một bức tranh
thiên nhiên quê hương gần gũi , quen thuộc . Bởi nó đã in dấu , đã hằn sâu ,đã
hoà cùng dòng chảy và đã lẫn vào những cảnh quê hương sông nước trên khắp đất
nước Việt Nam yêu dấu
c. Thể loại và bút
pháp:
- Tràng giang mang đậm
phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp,
gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi hơn là tả …những từ
Hán Việt cổ kính (tràng giang, cô liêu…).
- Song, Tràng giang lại
cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi” trữ tình
(buồn điệp điệp, sầu
trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu
ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn…)
d. Kết luận
- Tràng giang của Huy
Cận không chỉ là một bức phong cảnh mà còn là “một bài thơ về tâm hồn”. Bài thơ
thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc đời.
- Từ đề tài, cảm hứng,
chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, Tràng giang vừa mang phong vị thi ca cổ điển
vừa mang chất hiện đại của Thơ mới.
- Vẻ đẹp vừa cổ điển
vừa hiện đại cũng là một nét đặc trưng của phong cách Huy Cận.
Bài Viết
Huy Cận là một
trong những trụ cột của phong trào Thơ Mới. Cùng thế hệ với
Huy Cận, nhiều người hăng hái vận dụng cái mới trong thơ Tây phương nhằm cách tân về thi pháp,
riêng tác giả thi phẩm Lửa thiêng thì thường lẳng lặng kết hợp và dung hoà giữa
chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Pháp với cái hàm súc, sâu lắng của thơ Đường để
tạo cho thơ mình một vẻ đẹp riêng : vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại.
Có thể coi nét đặc
sắc của bài thơ Tràng giang là ở sự kết hợp hài hoà hai phẩm chất : màu sắc cổ
điển và chất hiện đại.
1. Mầu sắc cổ điển trong Tràng Giang:
Tràng giang còn là một thi phẩm được viết trên
tinh thần không khước từ với truyền thống. Tác giả vận dụng được nhiều nét tinh
hoa của văn chương trung đại và tạo cho bài thơ một vẻ đẹp hài hoà giữa mầu sắc
cổ điển và mầu sắc hiện đại phù hợp với
phong cách thơ giàu suy tưởng của chính mình.Mầu sắc cổ điển đậm đà, in dấu ấn
toàn diện tạo nên vẻ độc đáo của một bài Thơ Mới.
a/ Cổ điển ở
nhan đề:
Bài thơ mới lại có nhan đề bằng chữ
Hán. “Tràng” ( một âm đọc khác của “trường”) gợi sự cổ kính. “Giang” là tên
chung để chỉ các dòng sông. Hai chữ này gợi một không gian cổ kính, trang trọng,
bát ngát như trong Đường thi, gợi nhớ câu thơ nổi tiếng của Lý Bạch: “Duy kiến
trường giang thiên tế lưu” ( Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng).
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển cho bài thơ. "Tràng
giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm
"ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông,
không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng
giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang
trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm
tưởng.
Tứ thơ
"Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng
sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi
của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao
cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người
cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la.
b/ Cổ điển ở đề
từ:
“Bâng khuâng trời
rộng nhớ sông dài”.
Trời rộng gợi cảm giác về sự vô biên của vũ trụ.
Sông dài tạo ấn tượng về cái vô cùng của không gian. Trời rộng và sông dài mở
ra không gian ba chiều gợi cảm giác rợn ngợp của con người cô đơn, bé nhỏ trước
cái mênh mang, bất tận của trời đất. Tâm trạng này từng được diễn tả một cách
sâu sắc trong những vần thơ cô đọng, đầy ám ảnh của Trần Tử Ngang trong Đăng U
Châu đài ca :
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ
( Người trước không thấy ai
Người sau thì chưa tới
Ngẫm trời đất thật vô cùng
Một mình xót xa mà rơi lệ
)
Niềm ám ảnh thường
trực trong thơ Huy Cận là sự hữu hạn của kiếp người trước cõi vô biên của vũ trụ.
Mỗi khi đối diện với một không gian rộng lớn, mênh mang nỗi ám ảnh trên thường
thăng hoa thành niềm cô đơn, sầu muộn khó hoá giải.
Thơ Huy Cận
thiên về suy tưởng triết lý hơn là giãi bày, bộc lộ.Câu đề từ giản dị, ngắn gọn
với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng
khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng",
"sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người
dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng"
được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn
bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp
ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ
làm rung động trái tim người đọc
c, Cổ điển ở thi
liệu
Ở
Tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ: con thuyền ,
dòng sông , cách bèo , mặt nước . Có những hình ảnh tượng trưng thường gặp
trong thơ cổ : Tràng giang, sông dài , trời rộng, bến cô liêu , mây cao , núi bạc
, cánh chim nhỏ , bóng chiều sa , khói hoàng hôn, cuộc sông' con
người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan
rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn
về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm
cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự
khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu,
hàng nối hàng,
Mênh mông không
một chuyến đò ngang.
Không cần gợi
chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh
tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh
bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi
lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Bèo
trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi
lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp
bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối
tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người,
không có sự giao hoà, nối kết
Huy Cận lại khéo
vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao
đùn núi bạc,
Chim nghiêng
cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm
phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người
đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc.
Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được
khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn
cửa ải xa.
d/ Cổ điển ở tứ
thơ sóng đôi:
“Tràng giang” được
cấu tứ trên nền cảm hứng không gian sóng đôi:
Có dòng “Tràng giang” thuộc về thiên nhiên
trong tư cách một không gian hữu hình và ( cũng có ) dòng “Tràng giang” tâm hồn
như một không gian vô hình trong tâm tưởng. Đây vốn là cấu tứ quen thuộc của Đường
Thi.
Tiếp cận Tràng
Giang trong tư cách dòng sông thiên nhiên có thể thấy một điều đặc biệt: khổ
thơ nào cũng có thông điệp về nước. Thông điệp trực tiếp là các từ : “nước”,
“con nước”, “dòng”…Thông điệp gián tiếp là các từ : “sóng gợn”, “cồn nhỏ”, “bèo
dạt”, “bờ xanh”, “bãi vàng”…
Tiếp cận Tràng
giang với tư cách dòng sông cảm xúc trong tâm hồn lại phát hiện thêm một điều
thú vị nữa: Cảnh nào cũng gợi buồn. Sóng buồn vô hạn ( buồn điệp điệp); Gió đầy
tử khí: “đìu hiu”. Gợi nhớ đến câu: “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” ( Chinh
Phụ Ngâm); Bến sông cô đơn vắng vẻ: “bến cô liêu”; Nước với nỗi buồn trải khắp
không gian: “sầu trăm ngả”
e/ Cổ điển ở nghệ
thuật đối:
Màu sắc cổ điển
còn được bộc lộ qua cách sử dụng nghệ thuật đối của Đường Thi nhưng khá linh hoạt
và phóng túng.
Chẳng hạn: “Sóng
gợn…”đối với “ Con thuyền…”; “Nắng xuống đối với trời lên…” ; “Sông dài đối với
trời rộng…”
Nhưng đóng góp
quan trọng hơn cả là nghệ thuật đối được sử dụng một cách triệt để bằng hai hệ
thống hình ảnh mang tính tương phản giữa một bên là những sự vật nhỏ bé, gợi
suy ngẫm về cái hữu hạn của kiếp người: thuyền, củi, bến, bèo, cánh chim…và một
bên là những hình ảnh lớn lao, hùng tráng gợi liên tưởng về cái vô hạn của vũ
trụ: sông dài, trời rộng, lớp lớp mây cao, núi bạc…
e/ Sử dụng hệ thống
từ láy gợi âm hưởng cổ kính: (10 lần/16dòng thơ, cách ngắt nhịp truyền thống:
3/4)
Hệ thống từ láy
trải khắp bài thơ: “Tràng giang”, “điệp điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu
hiu”, “chót vót”, “mênh mông”, “lặng lẽ”, “lớp lớp”, “dợn dợn”.
Ngoài ra, tác giả
còn sử dụng sáng tạo thi liệu của Đường Thi với rất nhiều hình ảnh và chất liệu
quen thuộc. Đặc biệt câu kết mượn thẳng ý thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc
Lâu: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” ( Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai -
Tản Đà dịch ). Điểm khác biệt ở hai tác giả là : Nỗi nhớ nhà của Thôi Hiệu được
gợi từ hình ảnh “khói sóng” còn nỗi nhớ
của Huy Cận không cần tác động của ngoại giới ( Không khói hoàng hôn) vì đã là
một yếu tố nội tâm thường trực. Đây cũng là nét khác biệt cơ bản của hai cách
phô diễn cảm xúc tạo nên đặc điểm riêng của thi pháp thơ trung đại và thi pháp
thơ hiện đại.
2. Mầu sắc hiện đại:
Dù bài thơ Tràng
giang có in đậm màu sắc cổ điển trên một số phương diện như đã phân tích thì hiện
đại vẫn là nét chính của thi phẩm này. Bởi cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi
buồn mênh mang, sâu lắng của cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách
trực tiếp qua một cách diễn đạt cô đọng và hàm súc. Tâm trạng của một cái tôi
lãng mạn đó lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ qui tắc ước lệ
truyền thống vừa đem đến một phong cách trữ tình mới.
Nét hiện đại trong Tràng giang trước nhất thể hiện ở “nỗi buồn thế hệ” của một
“cái tôi” Thơ mới thời mất nước “chưa tìm thấy lối ra”, qua xu hướng giãi bày
trực tiếp “cái tôi” trữ tình (buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng
hôn cũng nhớ nhà…), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của
tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn…)
Mặt khác, Tràng giang
cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ
(củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt…). Bài thơ hiện
đại và là một bài thơ mới . Có cái mới của hồn thơ , có cái mới của chủ thể trữ
tình .Khác với thơ xưa , tâm trạng của chủ thể trữ tình,cảm hứng cá nhân của
nhà thơ chạy suốt toàn bài mới là nhất quán .Nó khác hẳn với kết cấu đề - thực
- luận - kết , hay tiền giải - hậu giải của thơ Đường .Bài thơ hiện đại trong
cách cảm nhận sự vật , trong cách sử dụng thi liệu hình ảnh : củi , sông , nắng
, bèo , cát , cây xanh , cánh chim , ... .Tất cả làm nên một bức tranh thiên
nhiên quê hương gần gũi , quen thuộc . Bởi nó đã in dấu , đã hằn sâu ,đã hoà
cùng dòng chảy và đã lẫn vào những cảnh quê hương sông nước trên khắp đất nước
Việt Nam yêu dấu
Ngay trong khổ thơ đầu, nỗi sầu muộn đã thấm
vào cái nhìn cảnh vật. Tuy thuyền và nước “song song” nhưng “thuyền về” ngược
hướng với “nước lại” gợi liên tưởng về một sự ngổn ngang trăm mối trong lòng.
Và hình ảnh gây ấn tượng chính là hình ảnh củi trong câu “Củi một cành khô lạc
mấy dòng”. Theo lời thổ lộ của chính tác giả, trong bản thảo, ông đã băn khoăn
nhiều, cân nhắc rất kỹ trước khi chọn hình ảnh này. Qủa nhiên, chi tiết giàu chất
thực đó mang đến cho câu thơ một màu sắc hiện đại. Hình ảnh “củi” không chỉ tạo
một ấn tượng mới mẻ mà còn gợi những liên tưởng và suy ngẫm về kiếp người lam lũ, tủi cực, lênh
đênh…
Mạch cảm xúc
trong khổ thơ tiếp theo diễn tả nỗi ám ảnh về cái hờ hững, mất liên lạc giữa
con người và tạo vật cùng cảm giác trống trải của tâm hồn con người trước cái
thế giới hoang vắng với hình ảnh bóng cây “lơ thơ” trên những cù lao nhỏ trơ trọi
và ngọn gió hiu hắt buồn như thổi về từ nghìn năm trước. Cảm giác trống trải
trước một không gian hoang sơ, vắng lặng càng được tô đậm khi tác giả sử dụng
nghệ thuật diễn tả cái động để làm nổi bật cái tĩnh:
“Đâu tiếng làng
xa vãn chợ chiều…”.
Câu thơ này từng
gợi ra hai cách hiểu. Một, âm thanh vẳng tới mơ hồ như có như không của phiên
chợ vãn ở làng xa khiến nhân vật trữ tình thấm thía hơn nỗi cô đơn trước một
không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối. Hai, đây chỉ là một ý nghĩ bất chợt, gần
như một ảo giác do những mong mỏi thầm kín trong thẳm sâu hồn người vào khi chiều
xế trong thời điểm tâm hồn rơi vào một nỗi cô đơn mang tính muôn thuở.
Nhưng câu thơ Nắng
xuống trời lên sâu chót vót mới thực sự gây ấn tượng mạnh bởi cách sử dụng nghệ
thuật tiểu đối, bởi lối dùng từ mới mẻ, táo bạo ( cách dùng hình dung từ sâu
chót vót thay cho cách diễn đạt thông thường cao chót vót ) vừa mở ra chiều cao
mênh mang đến thăm thẳm của bầu trời vừa diễn tả nỗi cô đơn của cái tôi trữ
tình, đặc biệt là cảm giác rợn ngợp của con người hữu hạn trước một vũ trụ vô
biên.
Nếu câu thơ vừa
phân tích chủ yếu gợi ấn tượng rợn ngợp bởi nỗi cô đơn do chiều cao vô cùng của
bầu trời đem lại thì câu thơ tiếp theo sử dụng nhịp 2/2/3 cùng hàm ý nhấn mạnh
vào các tính từ miêu tả không gian: sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu… nghe tựa
như một tiếng thở dài đầy bâng khuâng và sầu muộn của cái tôi trước tạo vật hững
hờ. Nỗi sầu muộn đó sẽ còn tiếp tục gây ám ảnh trong khổ thơ tiếp theo khi cái
tôi trữ tình đối diện với một thiên nhiên gần như ngoảnh mặt làm ngơ với bao nỗi
niềm cần chia sẻ của con người:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Trong khổ thơ có
những câu hỏi không thể có câu trả lời. Những câu hỏi như để khơi sâu thêm nỗi
buồn, cảm giác hẫng hụt và đặc biệt là tình cảnh bơ vơ của cái tôi trước một thế
giới không còn là nơi nương tựa quen thuộc như muôn nghìn năm trước nữa.
Trong khổ thơ
còn có sự diễn đạt mang tính tăng cấp nhấn vào các ngôn từ mang tính phủ định
khiến người đọc nảy sinh những liên tưởng và so sánh. Từ “khách vắng teo” của
Nguyễn Khuyến qua “đã vắng người sang những chuyến đò” của Xuân Diệu cho đến
hàng loạt từ “không đò”, “không cầu”, “lặng lẽ” của Huy Cận là cả một hành
trình “ càng đi sâu càng thấy lạnh” ( Hoài Thanh ) của con người khi bước vào
thế giới hiện đại.
Khổ thơ cuối diễn tả một sự đối lập
cao độ giữa con người với vũ trụ. Cái mênh mông của không gian: “lớp lớp mây
cao đùn núi bạc” tương phản gay gắt với hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ: bóng
chiều sa”. Rõ ràng, không còn là cánh chim mang tính nghệ thuật thuần tuý duy mĩ
như trong Đường Thi: “ Chiếc cò bay với ráng pha/ Sông xanh cùng với trời xa một
màu – Vương Bột ” hay cảnh “Bạch lộ song song phi hạ điền” ( Đôi cò trắng song
song bay xuống cánh đồng - Thiên Trường vãn vọng - Trần Nhân Tông) nữa. Cánh
chim ở đây chứa đựng cái tôi rợn ngợp trước hoàng hôn, gợi ám ảnh về cái hữu hạn
của kiếp người trước cái vô hạn của tạo hoá.
Nhu cầu tìm về một hình ảnh thân thương,
quen thuộc sưởi ấm lòng người trong bối cảnh nỗi cô đơn đang ngập tràn tâm trạng
như sắp dìm cái tôi trữ tình vào một nỗi
buồn vừa mang tính muôn thuở vừa chưa từng trải qua bao giờ sẽ là một tất yếu.
Đấy là lý do vì sao bài thơ kết thúc bởi hai câu:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
vừa như chịu ảnh
hưởng từ hai câu thơ của nổi tiếng của Thôi Hiệu: Nhật mộ hương quan hà xứ thị/
Yên ba giang thượng sử nhân sầu vừa như muốn đối lập với người xưa bằng lối bộc
lộ cảm xúc trực tiếp theo phong cách của con người thời hiện đại.
Tràng giang là một
trong số không nhiều thi phẩm tuyệt tác của phong trào Thơ Mới. Cả bài thơ vừa
mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối
thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc
sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết
là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc
của thơ Đường.
Cả bài thơ
"Tràng giang" bàng bạc trong không khí Đường thi, không khí cổ điển
dân tộc. Điều ấy được tạo nên bằng hàng loạt yếu tố được thống nhất nhuần nhuyễn
(từ đề tài đến thể thơ, từ hình ảnh đến ngôn ngữ,...). Nào tứ thơ lữ khách trước
hoàng hôn, con người trước cái mênh mang của vũ trụ, nào "lớp lớp mây
cao", "chim nghiêng cánh", nào "khói hoàng hôn" trên
sông nước mênh mông,... tất cả đều phảng phất sắc màu Đường thi, sắc màu cổ điển.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như
"sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối
cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện
đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực,
không làm gì được.Trong cái "cũ" lại ẩn chứa một tình cảm rất thời đại:
nỗi buồn cô đơn của một cá nhân trong lòng xã hội thực dân nửa phong kiến.
Bài thơ là một
thể hiện đặc sắc của hiện tượng "bình cũ rượu mới" thú vị trong văn
chương.
Nếu Xuân Diệu là
nhà thơ mới nhất trong tất cả những nhà thơ mới thì Huy Cận là nhà thơ có công
tô bồi cho lâu đài thơ mới càng thêm lồng lộng sáng đẹp. Là một nhà thơ mới
nhưng Huy Cận đã hoà vào đòng chảy của thơ mới một cách nhuần nhị những yếu tổ
cổ điển của văn học trung đại Việt Nam, của Đường thi. Trong nỗi niềm “mang
mang thiên cổ sầu” của người phương Đông xưa trước con người và vũ trụ, nhà thơ
lồng vào đấy nỗi cô đơn của con người cá nhân ý thức cái tôi cá thể vừa tiếp
thu được từ triết học và thơ ca phương Tây.. Cái tôi cá thể từ văn hoá văn học
Pháp bước xuống cuộc đời để rồi cảm nhận nỗi cô đơn, bất lực của mình, nên ngoái
nhìn về phía quê nhà, về phía truyền thống, mong cầu được sống vói cái ta làng
xã ngày xưa. Thơ ông, do đó mà có sự hoà hợp giữa thi pháp thơ Đường với thi
pháp thơ tượng trưng Pháp.
Nhận xét
Đăng nhận xét