Phân tích vẻ đẹp cổ điển, hiện đại trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử
Đây thôn Vĩ
Giạ:
Nếu Xuân Diệu là
nhà thơ mới nhất trong tất cả những nhà thơ mới thì Hàn Mặc Tử là nhà thơ lạ
vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn thi sĩ ta bắt gặp một tâm hồn
thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng;
một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ
mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo…nhưng đó là hình
chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. "Đây thôn Vĩ Dạ"
là bài thơ hay và tiêu biểu nhất cho phong cách tâm hồn thơ HMT, bài thơ đã được
nhà phê bình Hoài Thanh chọn in trong tập "Thi nhân Việt Nam"
(1941). Đây có thể xem là một chủ âm
trong cây đàn thơ muôn điệu của Hàn Mặc Tử, là một thi phẩm xuất sắc của thi
đàn Thơ mới. Hàn Mặc Tử quan niệm “Ta không nên quên thơ ta là thơ quốc âm, ta
phải giữ cái tinh thần Việt Nam của ta. Hơn nữa cái tinh thần phương Đông mà
rung cảm tâm hồn người ta là nhờ ở cái đẹp kín đáo, cái tình sâu sắc, cái buồn
thấm thía”. "Đây thôn Vĩ Dạ" cũng theo tinh thần ấy, bài thơ là sự kết
hợp giữa nét truyền thống và hiện đại.
+Cổ điển:
Buổi đầu, để khẳng
định cái mới, đề cao Thơ mới, người ta cho rằng Thơ mới đã đoạn tuyệt với thơ cổ.
Thực ra, trong quá trình vận động, Thơ mới luôn tiếp nối văn mạch của thơ cổ,
tiếp thu tinh hoa thơ cổ. Chịu ảnh hưởng thi ca Pháp nhưng Thơ mới có liên hệ
sâu sắc với Đường thi.
Trong bài thơ
"Đây thôn Vĩ Dạ", yếu tố truyền thống trước hết thể hiện ở thể thơ 7
tiếng tuân thủ chặt chẽ hiệp vần, đối, điệp.
- Thi liệu lấy tứ từ thơ cổ: gió, trăng, thuyền,
trúc, bến sông, thuyền,…
Hình ảnh hàng
cau , lá trúc, vườn cây là hình ảnh cuả thôn quê Việt Nam . Hình ảnh ấy đã trở
thành tình tự dân tộc trong ca dao, và tâm hồn VN trong thơ cổ điển. “ Gió đưa
cành trúc la đà “( Ca dao ), “ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo “ ( Thơ Nguyễn
Khuyến ).
Thuyền ai đậu bến
sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Tứ thơ có cái cao rộng trí tuệ cuả dòng trường giang chảy bên trời trong thơ cổ
điển ( vì sông trăng cũng chảy ngang bầu trời, như sông Ngân hà ), vưà có cái ấn
tượng thân phận mơ hồ sâu xa cuả “ thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
“trong thơ Nguyễn Du, lại có cái cảm thức đời thực cuả những con đò chở khách
hay con thuyền đánh cá trở về vào buổi tối.
Nét truyền thống
trong thơ trung đại được HMT vận dụng trong việc gợi tả, chấm phá "nắng
hàng cau", "vườn ai mướt quá xanh như ngọc", khắc họa bức tranh
thiên nhiên tươi đẹp, tinh khôi của xứ Huế chỉ bằng 2 câu thơ. Cần chi phải tả
nhiều, viết nhiều, ngần ấy thôi cũng đủ cho bạn đọc cảm nhận về thôn Vĩ tươi đẹp
trong kí ức nhà thơ.
- Nhịp điệu thơ
nhẹ nhàng: Toàn bài thơ luôn duy trì một âm điệu trầm buồn , sâu lắng , rất
thích hợp để diễn tả tâm trạng của nhà thơ .Âm điệu này được tạo nên bởi nhịp
điệu đều đều chậm rãi của thể thơ thất ngôn : 2/2/3 hoặc 4/3 với rất nhiều
thanh bằng nằm ở vần thơ.Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai
gợi nhớ đến vần ca dao thuyền nhớ bến… bến đợi thuyền.
Thuyền về có nhớ
bến chăng
Bến thì 1 dạ khăng khăng đợi thuyền
(Ca dao)
Và vì thế nó gợi
lên một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.
- Toàn bài thơ
có 4 từ “ai” đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các câu hỏi tu từ, không chỉ
góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một
miền dân ca Huế man mác sâu lắng, bồi hồi, thiết tha:
“Núi Truối ai đắp
mà cao,
Sông Hương ai bới,
ai đào mà sâu?
Nong tằm ao cá
nương dâu
Đò xưa bến cũ nhớ
câu hẹn hò…”
+ Hiện đại:
- Nét hiện đại
trong Thơ Mới thể hiện rõ ràng nhất ở cách bộc lộ tâm trạng trực tiếp của tác
giả. Yếu tố tâm lí phức tạp, "điên loạn" thể hiện rõ qua sự thay đổi
tâm trạng giữa các khổ thơ, các yếu tố không gian thời gian bị đảo lộn, không
theo quy luật khách quan từ gần đến xa từ xa đến gần, không theo dòng chảy của
thời gian mà theo dòng chảy của tâm trạng:
- Tâm trạng buồn
của nhà thơ lại in đậm nỗi buồn, cô đơn của thời đại, khát khao yêu đương chân
thành, đằm thắm, sự gắn bó với xứ Huế, một miền đất quê hương... Từ ao ước, đắm
say đến hoài vọng, đợi chờ và mơ tưởng, hoài nghi để cuối cùng sầu muộn và bi
quan, yếm thế. Tất cả chỉ là những cung bậc khác nhau nhưng cốt lõi vẫn là một
nỗi niềm thiết tha giao cảm với đời, với con người.từ góc độ không- thời gian
nghệ thuật, bài thơ liên kết với nhau không tuân theo tính liên tục của thời
gian và tính duy nhất của không gian: cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong ánh nắng
mai với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cảnh thực;
cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo, thực hư xen lẫn vào nhau chập chờn chuyển
hoá và hình bóng “khách đường xa” nơi chốn sương khói mông lung, cảnh chìm
trong mộng ảo. Không- thời gian nghệ thuật của bài thơ được sáng tạo mang tính
chủ quan gắn với tâm lí và cảm quan của nhà thơ.
Thời gian trong
bài thơ tồn tại không có tính liên tục, bị đứt nối, ngắt quãng: cảnh thôn Vĩ
vào buổi sớm tinh mơ- cảnh sông nước đêm trăng và cuối bài thơ chỉ còn là thời
gian vô thức, không xác định. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” như một dòng chảy
trôi những đứt nối của một nỗi niềm thiết tha gắn bó với đời, khát vọng sống đến
khắc khoải.
Thời gian nghệ
thuật là một biểu tượng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ của nhà văn về cuộc đời
và con người. Thời gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đã thể hiện quan niệm của Hàn Mặc
Tử về thế thái nhân sinh. Cuộc đời là một chuỗi thời gian đứt gãy, chắp nối và
cuối cùng tan vào hư vô. Mở đầu bài thơ, thời gian bắt đầu một ngày mới “Nhìn nắng
hàng cau, nắng mới lên”, cảnh vật tràn đầy sức sống. Thời gian thường vận động
theo dòng vận động tuyến tính, một chiều. Thế nhưng, nét mới, nét hiện đại ở
đây là thời gian trong bài thơ không liên tục mà ngắt quãng. Thời gian mở đầu
là buổi sớm tinh khôi nhưng đột ngột chuyển sang đêm trăng đầy mong ngóng, lo
âu, buồn đến nao lòng và kết thúc trong thời gian mộng ảo, không xác định. Sự đứt
nối thời gian trong bài thơ như một nỗi niềm tâm sự của nhà thơ về cuộc đời và
kiếp sống mong manh, đứt đoạn của con người, của Hàn Mặc Tử- một kiếp người
dang dở tình duyên và sự nghiệp văn chương.
Thời gian của
bài thơ không mang tính liên tục còn không gian lại không tuân theo tính duy nhất.
Không gian trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là không gian của sự chia lìa. Không gian nghệ
thuật trong tác phẩm văn học là mô hình thế giới độc lập, có tính chủ ý và mang
ý nghĩa tượng trưng của tác giả, là không gian tinh thần của con người, là
không gian sống mà con người cảm thấy trong tâm tưởng. Không gian nghệ thuật là
loại không gian topos, là không gian cảm giác được, là không gian nội cảm chứ
không phải như không gian mặt phẳng kiểu Euclid. Không gian nghệ thuật là sản
phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan
niệm nhất định về cuộc sống. Do đó không thể quy không gian trong “Đây thôn Vĩ
Dạ” về không gian địa lí hay không gian vật lí, vật chất.
Không gian trong
bài thơ là không gian xứ Huế , cách trở, huyền hồ ”mờ nhân ảnh”. Không gian xa
xôi, ngăn cách ấy không phải vì không gian địa lí mà đó là sự cách trở của hai
tâm hồn, là nỗi niềm thổn thức của Hàn thi sĩ. Không gian ở đây được soi chiếu
qua lăng kính cảm xúc chủ quan của nhà thơ
- Hình ảnh :
Những hình ảnh
vưà quen thuộc dân dã đã được HMT biến trở thành mới lạ hiện đại. HMT đã truyền
vào những chất liệu ấy một màu sắc thẩm mỹ mới. Không chỉ hàng cau, mà nắng mới
trên hàng cau; Không chỉ khám phá ra những lá non xanh mướt cuả vườn cây mà còn
nhận ra cái màu xanh ngọc sang trọng ; Không nhắc lại ngõ trúc, cành trúc hiu
quạnh tĩnh mịch cuả ngày xưa mà là “ lá trúc
che ngang mặt chữ điền “ . Câu thơ bao hàm được cả khung cảnh làng quê, ngõ
trúc và cuộc sống đang diễn ra, gần gũi thân thương…
Mơ khách đường
xa khách đường xa
Áo em trắng quá
nhìn không ra
Ở đây sương khói
mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai
có đậm đà
Khổ thơ vẽ nên cảnh
sắc vưà thực vưà hư ảo, vưà là Quy Nhơn ( ở đây ), vưà là ấn tượng xứ Huế trong
linh hồn đau thương cuả HMT, cảnh vưà trong thực tại hôm nay trong cõi đời này,
lại vưà như ở nơi xa mờ ngoài cõi nhân gian. Trong không gian cuả thế giới đa
chiều ấy, linh hồn HMT vưà hy vọng vưà tuyệt vọng, vưà hướng ra xa tìm kiếm mong
đợi, vưà nhìn vào trong thương cho số phận mình. Điều lay động sâu xa nơi người
đọc vẫn là tấm lòng thiết tha cuả HMT với cuộc đời, với đất nước, con người quê
hương. Điều kỳ diệu là, trong nỗi bi thương và tuyệt vọng không cùng ấy, hình ảnh
quê hương, con người xứ Huế hiện lên thật trong trẻo khôi nguyên. Nắng mới trên
hàng cau, vườn cây xanh ngọc, con thuyền đậu bến sông trăng, áo em trắng quá…Đó
cũng là linh hồn tinh khôi cuả HMT, người đã vượt lên trên cái bi thương tuyệt
vọng , vượt lên trên sự nhạt nhoà cõi chết, để sống mãi với đời trong niềm khát
khao vô hạn cõi nhân sinh tuyệt diệu này
- Xu hướng thơ
siêu thực, tượng trưng:
“Trăng” là hình ảnh khá quen thuộc trong thơ
ca trung đại để tỏ chí, tỏ lòng nhưng trong bài thơ này không còn là ánh trăng
của thi ca cổ điển nữa, nó đã được tác giả làm mới qua hình ảnh “sông trăng”.
Không còn là ánh trăng cô đơn trên cao, không phải là ánh trăng để người thi sĩ
giài bày, "sông trăng" toát lên thứ ánh vàng kì lạ, như sáng bừng một
góc xứ Huế, sáng dậy một góc trong tâm thức thi sĩ . Hình ảnh Trăng xuất hiện rất
nhiều trong thơ HMT, nó gần như trở thành một nỗi ám ảnh trong thơ ông. Nhà phê
bình Đặng Tiến có nhận xét minh xác về trăng Hàn thế này: “Trăng là nguồn sống
để đối diện, giãi bày nỗi lòng của thi sĩ. Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không chỉ
là ánh sáng huyền ảo và hắt hiu mà nó như một vật cụ thể khả xúc”.
Cảnh mây gió,
sông nước, đêm trăng xứ Huế êm đềm thơ mộng. Xứ Huế có dòng sông Hương nuớc lững
lờ trôi. Thuyền cuả du khách xuôi êm như ru qua các cù lao, hai bên bờ đậm nhạt
hoa cỏ. Ở cù lao Hến người xứ Huế trồng bắp, hoa bắp lay theo gió. Khách tham
quan có thể ghé vào thưởng thức những trái bắp ngọt … Đêm trăng sông Hương là một
không gian tuyệt vời, bầu trời rất trong và thoáng đãng, không gian tràn ngập
ánh trăng. Trăng tuôn chảy thành dòng , HMT gọi đó là sông trăng. Con thuyền đậu
bến sông trăng, như trong một thế giới trong veo cuả sự thanh khiết bình an và
lãng mạn. Những nét vẽ cảnh vật cuả HMT sắc xảo, tinh tế và có thần. Ai đã từng
thả thuyền trên sông Hương ban ngày hoặc xuôi theo dòng trong đêm trăng đều nhận
ra cái tài hoa rất mực cuả HMT trong tứ thơ
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Khổ 2 là bức tranh Siêu thực về cảnh sắc xứ Huế qua tâm trạng cuả HMT. HMT nhìn
đâu cũng thấy sự chia ly. Nỗi buồn thương bao trùm lên tất cả.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Xưa nay mây đi theo gió, gió thổi mây bay. Giờ thì gió theo lối gió, mây đường
mây, một hình ảnh Siêu thực, hình ảnh cuả chia ly. Mây, gió trở thành ẩn dụ cho
sự chia xa không sao hàn gắn được trong tâm thức HMT. Dòng sông Hương giờ chỉ
còn là “ dòng nước buồn thiu “, vắng lặng, thê thiết. Hoa bắp lay và dòng nước
buồn thiu hình như chẳng có liên quan gì với nhau. Đó là hai thực tại vô duyên,
nhạt nhẽo. Gọi là vô duyên bởi vì so với các loài hoa, thì hoa bắp là loại hoa
không hương không sắc, chẳng ai để ý. Người nông dân nhìn hoa bắp để biết trái
bắp non hay già. Khi hoa bắp khô, ấy là lúc trái bắp đã cứng hạt, có thể thu hoạch.
Hoa bắp trên thân cây khô chẳng gợi ra được bất cứ cảm xúc thẩm mỹ nào. Khác với
“ hoa trôi man mác biết là về đâu “ ( Truyện Kiều ) gợi ra số phận buồn thương.
Trong mắt nhìn cuả HMT, thực tại bây giờ là thực tại vô duyên, lạnh nhạt, thê
thiết. HMT đã xa lạ với thực tại ấy, đang mất dần những mối quan hệ với thực tại
ấy, chẳng thể giữ được điều gì. HMT đã đem đến cho thơ ca VN những mới mẻ
cuả nghệ thuật Siêu thực. Cảnh sắc mây gió, sông nước, đêm trăng xứ Huế đã
thăng hoa thành cái đẹp, cái đẹp vượt trên thực tại, để cùng với cái đẹp hiện
thực cuả xứ Huế làm nên tứ thơ lạ lùng, như chưa từng có. Quả thật khó có nhà
thơ nào viết được những tứ thơ hay hơn, độc đáo hơn về trăng như dòng sông
trăng cuả HMT. Bức tranh thiên nhiêu Siêu thực đã làm thay đổi phẩm chất thơ trữ
tình: Thơ trữ tình HMT trở thành thơ trữ tình hướng nội.. Thử so sánh với các
nhà thơ khác. Xuân Diệu chiêm ngắm muà thu ở ngoài tâm hồn mình , từ đó cảm nhận
cái đẹp khách thể cuả thiên nhiên trong Đây Muà Thu Tới, Huy Cận trải lòng mình
trên “ sông dài, trời rộng bến cô liêu “ mà nghe “ lòng quê dờn dợn vời con nước"(
Tràng Giang ). Còn HMT lại tự hỏi, con thuyền đậu bến sông trăng kia “có chở
trăng về kịp tối nay “.
=> phong cách
thơ Hàn Mặc Tử: tượng trưng, siêu thực .....
- Nhạc điệu thơ Hàn
Mặc Tử là nhạc điệu của tâm hồn có nhiều trạng thái đặc biệt. Hàn Mặc Tử hay
dùng cách kết hợp các từ láy hay chú công trong thanh điệu dể diển tả những
khúc nhạc lòng buồn miên man hoặc trầm lắng du dương. Một chữ “mơ” đầy tình tứ
trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Du
khách hay thôn nữ Vĩ Giạ? Chắc lại là giai nhân mà thi nhân từng mơ ước: “Áo em
trắng quá nhìn không ra”. Vừa thực vừa mông. Con người của thực tại hay con người
trong hoài niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Giạ đã làm mờ
nhân ảnh của giai nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương khói, một
thứ tình yêu kín đáo, e dè, thiết tha
Cùng với việc đổi
mới câu thơ, đổi mới từ ngữ, Thơ mới có sự vận động tăng cường tầng nghĩa sâu
theo "Nguyên lí tảng băng trôi" (Hemingway) bằng các biện pháp ẩn dụ,
chuyển đổi cảm giác, tạo nghĩa gợi ý, ẩn ý, hàm ý. Theo Chế Lan Viên, trong thơ
có "bề mặt" ,"bề sâu" và cả "bề xa" nữa. Câu thơ mở đầu bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc
Tử: "Sao anh không về chơi thôn Vỹ" là một câu hỏi phản ánh nội tâm
phong phú và tuyệt vời tế nhị. Từ "sao" là từ để hỏi, đặt ở đầu câu
như nỗi niềm da diết, bức xúc bị dồn nén quá lâu nay mới được bật ra. Câu thơ
có 6 thanh bằng ở đầu, thanh trắc ở cuối vút lên tạo âm điệu đặc biệt: nửa như
trách cứ day dứt mà nhẹ nhàng, nửa như mời gọi giục giã mà thiết tha. Người hỏi
là ai ? Một cô gái hay chính thi sĩ ? Có lẽ cả hai! Hay đúng hơn, chính Hàn Mặc
Tử phân thân để tự đối thoại. Từ tấm lòng thi sĩ vút lên câu hỏi khắc khoải vừa
thương nhớ Huế, vừa thương nhớ Người. Tình yêu đồng vọng với tình quê khiến
hình ảnh thôn Vỹ hiện về tràn ngập tâm hồn thi sĩ. Ở đây, sự giao tiếp của thơ
thực hiện vừa bằng cảm xúc, vừa bằng trí tuệ, vừa bằng cả thẩm mĩ các giác quan
hòa quyện.
Bài thơ có cấu
trúc rất lạ. Sự việc, con người được kể lại không theo bút pháp kể chuyện, sự vận
động cuả hình tượng thơ cũng không phải là nhịp điệu chuyển hoá tâm trạng cuả
nhân vật trữ tình. Tuy vậy, ba khổ thơ vẫn liền một mạch. Trước hết có sự liền
mạch là do các câu hỏi được lặp lại trong mỗi khổ thơ. Phép lặp cấu trúc tạo
nên sự kết nối. Nhưng cái mạch chính cuả bài thơ là ấn tượng cuả HMT về cảnh sắc,
con người xứ Huế đẹp, thơ mộng, êm đềm. Mỗi khổ thơ là một bức tranh xứ Huế
trong những thời gian khoảnh khắc khác nhau. Vườn cây, hàng cau, con thuyền đậu
bến sống trăng, thiếu nữ xứ Huế trắng loá trong sương. Ba bức tranh tuy là
riêng biệt nhưng vẫn là những nét đẹp đặc thù trong tổng thể đất nước con người
xứ Huế . Mạch phát triển tình cảm xuyên suốt bài thơ cũng là mạch thống nhất,
đó là tình cảm đằm thắm sâu nặng cuả HMT với quê hương xứ Huế, dù cung bậc và sắc
thái tình cảm có khác nhau, song tình cảm ấy cuả HMT là vẫn là một khối tinh
ròng và lấp lánh những sắc màu cuả tình quê hương, tình tự dân tộc, vì thế bài
thơ có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn người đọc.
Mạch phát triển thống nhất nhưng có một bước “ nhảy vọt nghệ thuật “ giưã các
khổ thơ. Nghiã là mội khổ thơ tồn tại độc lập, không quan hệ với nhau. Dường
như còn có vẻ xa lạ với nhau. Chẳng hạn khổ I có nhân vật “ anh “, khổ II có
nhân vật “ ai ” và khổ III có nhân vật “ em “. Không thể có một nhân vật trữ
tình vưà là em đối thoại với anh, vưà là mình đối thoại với ai, lại vưà là anh
đối thoại với em trong cùng một bài thơ. Cũng xa lạ như vậy về bút pháp, khổ I
được viết bằng bút pháp hiện thực. Cảnh và người là cảnh thực, thực đến từng
chi tiết, chẳng hạn chi tiết lá trúc che ngang mặt chữ điền. Khổ thơ II cảnh
không còn là cảnh hiện thực nưã. Hiện thực thăng hoa thành Siêu thực. Người đọc
chỉ còn thấy một vài dấu tích cuả hiện thực: dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay,
con thuyền, dòng sông. Và ngay cả những dấu tích ấy, cũng nhoà đi trong tâm tưởng
HMT. HMT đang đâu đó khuất trong bóng tối, nhìn ra ngoài kia, thấy rất rõ đường
nét, linh hồn cuả mây, gió, sông nước, và dòng sông trăng soi sáng con thuyền
chở trăng đang đậu bến. Đến khổ thơ III, HMT đã ở nơi xa lắm, ngoài cõi nhân
gian, nhìn thấy mình đã “ mờ nhân ảnh “ trong cõi người. Đó không còn là cái
nhìn Siêu thức, mà là cái nhìn bằng tâm linh. Chỉ khi linh hồn thoát ra khỏi
thân xác, bước vào cõi ánh sáng chói loá nhìn không ra, thì khi ấy mới nhìn thấy
con người trần gian mờ mờ nhân ảnh.
HMT
đã đem đến một bút pháp mới lạ cho thơ VN. Từ bút pháp hiện thực, tượng trưng
quen thuộc, thơ ca đã đã bước hẳn sang thế giới siêu thực . Hơn thế, HMT còn dẫn
thơ ca vào cõi tâm linh nhưng lại rất dân dã và hiện thực. Bài thơ tiêu biểu cho Thơ mới, có sự kết hợp giữa tinh hoa thơ
trung đại và nét mới mẻ của thơ hiện đại phương Tây. Từ đó thấy rằng thơ mới là
một bước tiếp nối, phát triển của thơ ca dân tộc chứ không phải là bước đọan
tuyệt với thơ trung đại.
Nhận xét
Đăng nhận xét